Mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
Mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đều quy định trách nhiệm phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát, với các cơ quan, tổ chức khác của Nhà nước trong hệ thống chính trị nhằm phòng ngừa và chống tội phạm có hiệu quả, xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp(2). Các cơ quan tiến hành tố tụng không những có trách nhiệm phối hợp với nhau mà còn phải phối hợp với các cơ quan nhà nước khác bằng những nội dung cụ thể, thiết thực được quy định tại Điều 26 và Điều 27 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003(3). Quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự còn có mục đích chung là tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, kiến nghị hoặc yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm. Mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự biểu hiện trên hai bình diện sau đây:
1. Mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
Các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung đều có chung nhiệm vụ là đấu tranh, phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội và cùng có trách nhiệm là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, tôn trọng quyền và lợi ích của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính từ mục đích chung đó đã hình thành nên mối quan hệ phối hợp trong tố tụng hình sự giữa Viện kiểm sát và Toà án như là một vấn đề tất yếu. Mối quan hệ phối hợp đó cơ bản là quan hệ giữa chức năng xét xử và chức năng buộc tội. Bản thân hai chức năng này có quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau. Không thể xét xử nếu không có sự buộc tội, hay nói cách khác, ở đâu có buộc tội, thì ở đó phát sinh hoạt động xét xử và bào chữa. Nếu Viện kiểm sát làm tốt chức năng buộc tội thì hỗ trợ đắc lực cho chức năng xét xử và ngược lại thì tác dụng không tốt. Ngay từ khi thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ nhằm xác định tội trạng và khung hình phạt truy tố, cũng như thủ tục tố tụng được tiến hành chặt chẽ đặt nền móng cho Toà án thực hiện hiệu quả hoạt động tố tụng. Tại phiên toà, nếu kiểm sát viên làm tốt vai trò công tố nhà nước thì tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử. Ngược lại Toà án thực hiện chức năng xét xử đúng đắn tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố nhà nước và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Cơ sở của sự phối hợp là chỉ khi xảy ra việc giải quyết vụ án hình sự và dựa trên các nguyên tắc cơ bản Bộ luật Tố tụng hình sự đã định, trong đó là nguyên tắc xác định sự thật vụ án và nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan tố tụng hình sự với các cơ quan, tổ chức nhà nước. Bên cạnh đó quan hệ phối hợp giữa Toà án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự còn xuất phát từ yêu cầu phải thực hiện đúng đắn thẩm quyền của người tiến hành tố tụng; việc thực hiện các quy định của pháp luật do có sự bất cập, chưa hoàn thiện, do đó đòi hỏi có sự phối hợp hoạt động để đạt hiệu quả trong hoạt động tố tụng và áp dụng thống nhất căn cứ pháp luật, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Trong những năm qua mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Toà án trong tố tụng hình sự được thực hiện trên cơ sở các thông tư liên ngành và các quy chế phối hợp về các vấn đề, như: Những trường hợp cần họp trù bị giữa Tòa án và Viện kiểm sát quy định tại Thông tư liên tịch số 01 ngày 8/12/1988 của Toà án nhân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; nhằm giải quyết án trọng điểm, phức tạp theo Thông tư liên ngành số 01/TTLN-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 15/10/1994; về việc thông báo, gửi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến người phạm tội tại Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC; về quan hệ phối hợp trong một số hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự quy định tại Thông tư số 01/2008/TTLT-VKSNDTC- TANDTC-BQP- BCA v.v... Về quy chế phối hợp được quy định trong Quy chế số 01/2006/QCPH giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an… phối hợp trong công tác phòng, chống tham nhũng. Trên cơ sở các văn bản pháp luật liên ngành tư pháp trung ương xác định về các nội dung phối hợp giải quyết những vấn đề trong vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương xây dựng kế hoạch liên ngành phối hợp giải quyết những vấn đề cụ thể về tư pháp hình sự(4); định kỳ họp liên ngành Công an, Viện kiểm sát, Tòa án cấp tỉnh và huyện thống nhất giải quyết những vấn đề vướng mắc trong hoạt động tố tụng hình sự(5). Những năm gần đây, việc họp liên ngành của các cơ quan tố tụng hình sự chỉ tập trung bàn thống nhất tháo gỡ vướng mắc bất cập trong hoạt động của mình, phối hợp giải quyết án điểm, tổ chức phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, không còn thống nhất định tội danh và bàn bạc những nội dung trong vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung như trước đây. Do nhận thức về tính độc lập trong hoạt động tố tụng của thẩm phán và kiểm sát viên ngày càng cao nhằm tránh tình trạng “án bỏ túi” bị dư luận lên án.
2. Mối quan hệ chế ước giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, “Chế ước là hạn chế, quy định trong những điều kiện nhất định”(6). Cùng với quan điểm này tác giả Đỗ Ngọc Quang cho rằng: “Khái niệm chế ước có thể được hiểu như là sự tác động qua lại giữa các bên theo hướng khống chế lẫn nhau, kiềm chế sự vận động của nhau” (7). Các quan điểm này cho thấy, chế ước là sự tác động qua lại và kiềm chế lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong những điều kiện nhất định; trong hoạt động tố tụng hình sự là sự tác động qua lại giữa các chủ thể tham gia nhằm kiểm soát lẫn nhau việc tuân thủ pháp luật, tránh việc lạm quyền. Pháp luật nước ta xác lập quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát không những là quan hệ phối hợp mà còn là chế ước. Sự tác động qua lại của hai chủ thể này trong những điều kiện nhất định giúp cho việc thực thi công vụ đúng đắn, tránh lạm quyền. Nói cụ thể ra là đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự tránh sai sót, vi phạm pháp luật dẫn đến việc xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nhà nước và xã hội.
Quan hệ chế ước giữa các chủ thể đó thể hiện ở chỗ: Khi Viện kiểm sát là cơ quan có độc quyền truy tố một người ra toà nhưng việc kết tội lại thuộc về Toà án. Tại phiên toà xét xử nhân danh nhà nước thực hành quyền công tố, nhưng kiểm sát viên chỉ đưa ra ý kiến đề xuất quan điểm giải quyết vụ án còn quyết định về tội trạng, mức hình phạt vẫn là hội đồng xét xử. Nhưng mọi hoạt động xét xử của Toà án phải đảm bảo đúng yêu cầu là có truy tố về hành vi về con người thì mới được xét xử. Toà án không thể tuỳ tiện làm trái thủ tục tố tụng, do đó pháp luật quy định Viện kiểm sát ngoài chức năng công tố còn có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, đó là giám sát việc tuân thủ của hội đồng xét xử tại phiên toà, cũng như giám sát hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền. Trong trường hợp vi phạm thủ tục tố tụng tại phiên toà thì kiểm sát viên có quyền ý kiến trực tiếp, ví dụ: Hội đồng xét xử không hỏi người tham gia tố tụng có ý kiến về việc có yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng thì kiểm sát viên đề nghị hội đồng xét xử hỏi. Mặt khác sau khi xét xử Viện kiểm sát có quyền ban hành kiến nghị yêu cầu Toà án khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử hoặc ban hành kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để giải quyết lại vụ án khi có căn cứ luật định. Như vậy có thể thấy, dù Toà án có quyền độc lập trong việc phán quyết, tuy nhiên nếu trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị, kháng nghị để đảm bảo cho việc chấp hành pháp luật của Toà án. Pháp luật nước ta còn quy định, nếu kiến nghị của Viện kiểm sát không được Toà án tiếp thu, thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Toà án cấp trên và báo cáo Viện kiểm sát cấp trên để kiến nghị được đảm bảo thực hiện. Qua hoạt động giám sát của Viện kiểm sát còn giúp cho Toà án tránh được những sai sót, vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế.
Về quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cho phép Toà án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung - ở đây cũng thể hiện quan hệ chế ước lẫn nhau giữa Toà án và Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự. Vì Viện kiểm sát phải có trách nhiệm điều tra bổ sung và để tránh tình trạng sai sót trong quá trình điều tra đòi hỏi Viện kiểm sát phải làm tốt chức năng kiểm sát điều tra. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát có quyền giữ nguyên quan điểm truy tố nếu Viện kiểm sát không chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Toà án và theo nguyên tắc xét xử và giới hạn của việc xét xử thì Toà án vẫn đưa vụ án ra xét xử. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định giới hạn việc xét xử và số lần trả hồ sơ của Toà án tối đa là 2 lần đã thể hiện sự chế ước của Viện kiểm sát đối với Toà án. Điều này xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội, có lợi cho người bị buộc tội và đúng với lý luận khoa học về chức năng công tố. Dù thể hiện quan hệ chế ước giữa Viện kiểm sát và Toà án, nhưng quan hệ đó phải trên cơ sở đảm bảo thực hiện đúng chức năng tố tụng của mỗi ngành, phải phù hợp và hỗ trợ đắc lực cho nguyên tắc tranh tụng theo tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.
Về bản chất của mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát là phối hợp, chế ước nhưng không làm mất đi tính độc lập trong thực thi chức năng mỗi ngành và phối hợp nhưng không bao biện lẫn nhau. Chúng tôi tán thành nhận định rằng: “Ở giai đoạn xét xử, tuy Toà án (hoặc hội đồng xét xử) là cơ quan giữ vai trò chỉ đạo việc xét xử, là cơ quan quyết định quá trình xét xử, nhưng Viện kiểm sát và Toà án lại hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi cơ quan tự chịu trách nhiệm về công việc của mình. Toà án không làm thay hay can thiệp vào công việc của Viện kiểm sát (kiểm sát viên) và ngược lại, Viện kiểm sát cũng không can thiệp vào công việc xét xử của Toà án, mặc dù Viện kiểm sát có quyền và trách nhiệm kiểm sát hoạt động xét xử của Toà án” (8).
Trong quan hệ phối hợp cơ bản là để giải quyết những vướng mắc, bất cập trong hoạt động tố tụng hình sự. Trong quan hệ chế ước, cơ bản là nhằm tránh lạm quyền trong thực hiện chức năng tiến hành tố tụng đối với Toà án và Viện kiểm sát. Trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, thì mối quan hệ giữa Toà án và Viện kiểm sát cần được xây dựng theo hướng phối hợp, chế ước nhưng phải đảm bảo tính độc lập của người tiến hành và trên cơ sở đảm bảo thực hiện đúng chức năng xét xử của Toà án và tăng cường yếu tố tranh tụng.
ThS. Nguyễn Ngọc Kiện
(1) Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”.
(2) Điều 7 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002; Điều 14, Điều 15 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
(3) Xem các nội dung phối hợp cụ thể tại Điều 26, Điều 27 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
(4) Ví dụ: Kế hoạch số 01/KHLN-CA-VKSND-TAND ngày 12/7/2010 của tỉnh Bình Dương về việc phối hợp tổ chức đợt tổng kiểm kê người có án phạt tù còn ở ngoài xã hội và người đang chấp hành hình phạt ở cấp xã.
(5) Ví dụ: Thông báo số 149/2009/TBLN-CAT-VKS-TA ngày 5/6/2009 về kết quả cuộc họp liên ngành Công an, Kiểm sát và Toà án tỉnh Bình Dương về việc thống nhất hướng dẫn giải quyết những vấn đề vướng mắc trong hoạt động tố tụng hình sự.
(6) Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội, tr. 150.
(7) Đỗ Ngọc Quang (1997), Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự, Nxb. chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 99.
(8) Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Sổ tay Kiểm sát viên hình sự (tập I), Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, tr. 46.