Chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng không phải là nhà ở
        
            Câu hỏi
        
            Quy định của pháp luật như thế nào về chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng không phải là nhà ở?
        
            Câu trả lời
        
Theo Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy  định chi tiết thi hành một số điều, khoản của Luật Đất đai số  45/2013/QH13 thì chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng không phải  là nhà ở được quy định như sau:
“Điều 32. Chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng không phải là nhà ở
Chủ sở hữu công trình xây dựng không phải là nhà ở được chứng nhận quyền sở hữu theo quy định sau đây:
1. Hộ gia đình, cá nhân trong nước, cộng đồng dân cư phải có một trong các loại giấy tờ sau:
a) Giấy phép xây dựng công trình đối với trường hợp phải xin phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng.
Trường  hợp công trình đã xây dựng không đúng với giấy phép xây dựng được cấp  thì phải có ý kiến bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền cấp phép xây  dựng xác nhận diện tích xây dựng không đúng giấy phép không ảnh hưởng  đến an toàn công trình và nay phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ  quan có thẩm quyền phê duyệt;
b)  Giấy tờ về sở hữu công trình xây dựng do cơ quan có thẩm quyền cấp qua  các thời kỳ, trừ trường hợp Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng;
c)  Giấy tờ mua bán hoặc tặng cho hoặc thừa kế công trình xây dựng theo quy  định của pháp luật đã được công chứng hoặc chứng thực theo quy định;
d)  Giấy tờ của Tòa án nhân dân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải  quyết được quyền sở hữu công trình xây dựng đã có hiệu lực pháp luật;
đ)  Trường hợp người đề nghị chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng có  một trong những giấy tờ quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản này mà  trên giấy tờ đó ghi tên người khác thì phải có một trong các giấy tờ  mua bán, tặng cho, đổi, thừa kế công trình xây dựng trước ngày 01 tháng 7  năm 2004 có chữ ký của các bên có liên quan và được Ủy ban nhân dân từ  cấp xã trở lên xác nhận; trường hợp mua, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa  kế công trình xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà không có giấy  tờ về việc đã mua bán, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế có chữ ký của  các bên có liên quan thì phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận vào  đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và  tài sản khác gắn liền với đất về thời điểm mua, nhận tặng cho, đổi,  nhận thừa kế công trình xây dựng đó.
Trường  hợp người đề nghị chứng nhận quyền sở hữu công trình có một trong những  giấy tờ quy định tại các Điểm a, b, c, và d Khoản này mà hiện trạng  công trình không phù hợp với giấy tờ đó thì phần công trình không phù  hợp với giấy tờ phải được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận như quy định  tại Điểm e Khoản này;
e)  Trường hợp cá nhân trong nước không có một trong những giấy tờ quy định  tại các Điểm a, b, c và d Khoản này thì phải được Ủy ban nhân dân cấp  xã xác nhận công trình đã hoàn thành xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm  2004 và công trình được xây dựng trước khi có quy hoạch sử dụng đất, quy  hoạch xây dựng hoặc phải phù hợp quy hoạch đối với trường hợp xây dựng  sau khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng.
Trường  hợp công trình hoàn thành xây dựng từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì phải  có giấy tờ xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về công trình xây dựng  không thuộc trường hợp phải xin giấy phép xây dựng và đáp ứng điều kiện  về quy hoạch như trường hợp xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004;  trường hợp công trình thuộc đối tượng phải xin phép xây dựng mà không  xin phép thì phải có giấy tờ của cơ quan quản lý về xây dựng cấp huyện  chấp thuận cho tồn tại công trình đó.
2.  Tổ chức trong nước, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước  ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có giấy tờ theo quy định  sau:
a)  Trường hợp tạo lập công trình xây dựng thông qua đầu tư xây dựng mới  theo quy định của pháp luật thì phải có quyết định phê duyệt dự án hoặc  quyết định đầu tư dự án hoặc giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đầu  tư hoặc giấy phép xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp và giấy  tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc hợp  đồng thuê đất với người sử dụng đất có mục đích sử dụng đất phù hợp với  mục đích xây dựng công trình;
b)  Trường hợp tạo lập công trình xây dựng bằng một trong các hình thức mua  bán, nhận tặng cho, đổi, nhận thừa kế hoặc hình thức khác theo quy định  của pháp luật thì phải có văn bản về giao dịch đó theo quy định của  pháp luật;
c)  Trường hợp không có một trong những giấy tờ quy định tại Điểm a và Điểm  b Khoản này thì phải được cơ quan quản lý về xây dựng cấp tỉnh xác nhận  công trình xây dựng tồn tại trước khi có quy hoạch xây dựng mà nay vẫn  phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền  phê duyệt;
d)  Trường hợp công trình đã xây dựng không phù hợp với giấy tờ quy định  tại các Điểm a, b và c Khoản này thì phần diện tích công trình không phù  hợp với giấy tờ phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép xây dựng kiểm  tra, xác nhận diện tích xây dựng không đúng giấy tờ không ảnh hưởng đến  an toàn công trình và phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan có  thẩm quyền phê duyệt.  
3.  Trường hợp chủ sở hữu công trình xây dựng không đồng thời là người sử  dụng đất thì ngoài giấy tờ chứng minh về quyền sở hữu công trình theo  quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này, phải có văn bản chấp thuận của  người sử dụng đất đồng ý cho xây dựng công trình đã được công chứng  hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật và bản sao giấy tờ về quyền  sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.”
 
Các văn bản liên quan:
                 Nghị định 43/2014/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai             
                 Luật 45/2013/QH13 Đất đai             
Trả lời bởi:             hoidapphapluat