Áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với từng người phải thi hành án
Câu hỏi
Ngân hàng XBANK cấp tín dụng cho một Công ty A. Khoản cấp tín dụng được đảm bảo bằng thư bảo lãnh thanh toán cho XBANK của Ngân hàng X và các bất động sản là tài sản đảm bảo bao gồm: Nhà và đất của Công ty A, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của người thứ ba. Do Công ty A vi phạm nghĩa vụ trả nợ với XBANK nên XBANK khởi kiện vụ kiện tại Tòa án để yêu cầu giải quyết vụ việc. Tòa án đã xét xử sơ thẩm vào tháng 06/2012 và xét xử phúc thẩm vào tháng 12/2012 với phán quyết tại bản án phúc thẩm tuyên:
- Công ty A phải thanh toán cho Ngân hàng XBANK số tiền nợ theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử là 97.866.989.298 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh trên vốn gốc từ ngày xét xử cho đến khi trả hết nợ cho XBANK theo mức lãi suất nợ quá hạn quy định trong hợp đồng tín dụng giữa XBANK và Công ty A. Thời hạn thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
- Quá thời hạn mà Công ty A không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ các khoản nợ thì:
+ Ngân hàng X phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo các thư bảo lãnh đã phát hành bằng cách thanh toán cho XBANK số tiền gốc của nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng.
+ Phát mãi các tài sản đảm bảo của Công ty A và của bên thứ ba để thu hồi nợ cho XBANK.
Tháng 01/2013, XBANK có đơn yêu cầu thi hành án. Cơ quan thi hành án đã yêu cầu Tòa án giải thích bản án nội dung trong trường hợp Công ty A không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ các khoản nợ trong phần quyết định của bản án, thì cơ quan thi hành án có được xử lý khấu trừ ngay tiền trong tài khoản của Ngân hàng X để thi hành nghĩa vụ trả nợ theo các thư bảo lãnh với số tiền gốc của nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng trước khi kê biên xử lý các tài sản bảo đảm được tuyên trong bản án hay không? Tháng 03/2013, Tòa án có văn bản trả lời nếu Công ty A không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ các khoản nợ trong phần quyết định của bản án phúc thẩm, cơ quan thi hành án được quyền đồng thời áp dụng biện pháp tài sản sau: Buộc Ngân hàng X phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo các thư bảo lãnh với số tiền gốc của nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng, phát mãi các tài sản đảm bảo được tuyên trong phần quyết định của bản án phúc thẩm.
Vậy, XBANK có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án thực hiện cưỡng chế thi hành án đối với Ngân hàng X và các đương sự khác không? Hay vì trong văn bản của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao có giải thích cơ quan thi hành án được quyền đồng thời áp dụng biện pháp tài sản, do đó, việc khấu trừ tiền trong tài khoản của Ngân hàng X phải được thực hiện cùng một thời điểm với việc kê biên, phát mãi tài sản thế chấp của Công ty A và các tài sản thế chấp khác?
Câu trả lời
Với nội dung vụ việc bạn hỏi thì có một số vấn đề pháp lý sau đây cần được nhận thức đúng trước khi khẳng định XBANK có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện cưỡng chế thi hành án đối với Ngân hàng X và các đương sự khác không?
1. Thứ nhất, về xác định người phải thi hành án theo nội dung bản án phúc thẩm của Toà án ?
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Khoản 2 Điều 9 Luật Thi hành án dân sự quy định người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này.
Đối chiếu với quy định này và căn cứ vào nội dung bản án phúc thẩm nêu trên thì có hai người phải thi hành án được xác định theo hai thời điểm thực hiện nghĩa vụ:
- Một là Công ty A. Theo đó, Công ty A phải thanh toán cho Ngân hàng XBANK số tiền nợ theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử là 97.866.989.298 đồng và toàn bộ tiền lãi phát sinh trên vốn gốc từ ngày xét xử cho đến khi trả hết nợ cho XBANK theo mức lãi suất nợ quá hạn quy định trong hợp đồng tín dụng giữa XBANK và Công ty A. Thời hạn thanh toán ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
- Hai là, Ngân hàng X: Ngân hàng X trở thành người phải thi hành án khi “quá thời hạn mà Công ty A không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ các khoản nợ”, Ngân hành X “phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo các thư bảo lãnh đã phát hành bằng cách thanh toán cho XBANK số tiền gốc của nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng”. Vì vậy, Ngân hàng X là người phải thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của pháp luật để thi hành nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng.
2. Về thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự:
Điều 71 Luật Thi hành án dân sự quy định 6 loại biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, gồm: Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ và buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định.
Sáu loại biện pháp cưỡng chế này bảo đảm cho 3 loại nghĩa vụ dân sự và được áp dụng đối với từng người phải thi hành án tuỳ theo nghĩa vụ của họ. Việc áp dụng từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự có những quy định của thủ tục chung về cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng cũng có đặc thù riêng của từng biện pháp cưỡng chế. Một hoặc nhiều người phải thi hành án có thể bị áp dụng đồng thời cùng một lúc một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế thi hành án, tuy nhiên mỗi biện pháp cưỡng chế phải ra một quyết định cưỡng chế thi hành án, vì thế việc đồng thời áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự không có nghĩa là việc áp dụng biện pháp cưỡng chế này phải thực hiện cùng lúc với biện pháp cưỡng chế khác hay thực hiện biện pháp cưỡng chế này phải chờ biện pháp cưỡng chế khác, mà mỗi biện pháp cưỡng chế thi hành án có tính độc lập nhau và phải được áp dụng kịp thời để trách tẩu tán tài sản, bảo đảm hiệu quả của việc thi hành án, hạn chế án dân sự tồn đọng.
Ví dụ, biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án được thực hiện thì Chấp hành viên phải xác minh cụ thể cưỡng chế tài sản gì, tình trạng tài sản đó có đang cầm cố, thế chấp hay không; tài sản đó có phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản hay không.v.v. nên phải có khoảng thời gian nhất định.
Tuy nhiên, biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản hoặc trừ vào thu nhập thì việc xác minh đơn giản hơn vì dễ dàng xác định được số tiền của người phải thi hành án có trong tài khoản hoặc thu nhập của họ được nhận lương từ người sử dụng lao động, vì thế việc áp dụng biện pháp cưỡng chế loại này nhanh và phải kịp thời nhằm hạn chế việc tẩu tán tiền trong tài khoản.
Trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành án nhưng Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự không kịp thời áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dẫn đến gây thiệt hại cho đương sự (như chậm cưỡng chế làm cho người phải thi hành án phải chịu thêm lãi chậm thi hành án hoặc người được thi hành án chậm, không được thi hành án do tài sản bị hư hỏng, tẩu tán) thì Chấp hành viên phải bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Như vậy, từ những phân tích nêu trên cho thấy trong trường hợp bạn hỏi, đã quá thời hạn theo nội dung quyết định của Toà án thì XBANK có quyền yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với Ngân hàng X để thi hành án thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo các thư bảo lãnh với số tiền gốc của nghĩa vụ bảo lãnh là 50.000.000.000 đồng và áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với Công ty A để thi hành khoản tiền gốc còn lại trong số tiền nợ theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử là 97.866.989.298 đồng, cùng toàn bộ tiền lãi phát sinh trên vốn gốc từ ngày xét xử cho đến khi trả hết nợ cho XBANK theo mức lãi suất nợ quá hạn quy định trong hợp đồng tín dụng. Việc cưỡng chế thi hành án đối với Ngân hàng X không nhất thiết phải thực hiện song song hoặc phải chờ việc xử lý các tài sản đảm bảo khác.
Các văn bản liên quan:
Luật 35/2009/QH12 Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luật 26/2008/QH12 Thi hành án dân sự
Trả lời bởi: Lê Anh Tuấn - Tổng cục Thi hành án dân sự